Kim Chi một món ăn truyền thống không thể thiếu trong đời sống người Hàn Quốc và văn hóa muối Kimchi được gọi là Văn hóa Kimjang, chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Mục Lục
1. Văn hóa Kimjang – Di sản văn hóa phi vật thể của Nhân loại
Uỷ ban liên chính phủ về bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể lần thứ 8 (12.2-7, Cộng hòa Azerbaijan) đã đưa rõ ra những quyết định cuối cùng xác nhận ‘Văn hóa Kimjang – Văn hóa muối Kimchi’ (Kimjang: Making and Sharing Kimchi in the Republic of Korea) vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (Representative List of the Intangible Cultural Heritage of Humanity).
Được ra đời từ năm 2008, danh sách Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm khoảng 100 sự kiện truyền thống từ khắp nơi trên thế giới. Hoạt động này của UNESCO được nhắm tới mục tiêu nhiều loại hóa những loại hình di sản và nâng cao nhận thức của con người đối với tầm cần thiết của các loại hình truyền thống đó.
2. Văn hóa Kimjang – Cội nguồn sức mạnh của dân tộc Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, lễ tế Tông miếu và Nhạc tế lễ Tông miếu là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên được đưa vào danh sách của UNESCO năm 2001. Đến nay, đã có tổng cộng 15 di sản văn hóa phi vật thể được tổ chức này công nhận.
Cứ vào đầu tháng 11 hàng năm, các tin tức liên quan đến Kimjang lại xảy ra liên tục trên các phương tiện truyền thông ở Hàn Quốc, cho biết nhất định ở từng vùng nên muối kimchi vào lúc nào, thời tiết như thế nào và giá cả nguyên liệu, gia vị như thế nào. Người Hàn Quốc coi trọng và quan tâm đến văn hóa Kimjang đến mức hàng năm còn công bố thông số Kimchi, kiểu như thông số McDonald ở Mỹ. Đấy là do kimchi là món ăn không thể thiếu trên bàn ăn mỗi gia đình người Hàn. Đây chính là điểm được nhấn mạnh trong đơn đăng ký xét duyệt kimchi là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại gửi lên UNESCO.
Văn hóa Kimjang là một dịp rất quan trọng đối với người dân Hàn Quốc. Trước đó, tới dịp làm Kimjang, công nhân viên chức có thể được thêm một ngày nghỉ phép hoặc hưởng tiền thưởng.
3. Văn hóa Kimjang – vị của bàn tay mẹ
Văn bản đầu tiên miêu tả kimchi xảy ra vào đầu thời kỳ Goryeo (khoảng thế kỷ thứ 10), trong số đó kimchi còn được gọi là “jeo”, âm Hán là “trư”, nghĩa là “ngâm, tẩm thấm”. Trong sách “Đông quốc lý tương quốc tập” của văn sỹ Lee Gyu-bo thời Goryeo có đoạn: “Củ cải muối ăn trong ba tháng hè rất tích cực và kimchi ngâm muối có thể là món ăn trong suốt mùa đông”. Đó là những ghi chép cho chúng ta thấy diện mạo thời kỳ đầu của văn hóa Kimjang. Việc làm tương trong mùa hè và muối kimchi trong mùa đông là những việc trọng đại trong năm của toàn bộ mọi người, mọi nhà.”
4. Văn hóa Kimjang – Mùa muối Kimchi được ủ trong vại chôn sâu trong lòng đất suốt một mùa đông
Từ điển Hàn Quốc có khái niệm ‘ Văn hóa Kimjang’ là ‘Việc muối nhiều Kimchi, Kkakdugi (Kimchi củ cải thái nhỏ), Dongchimi (Kimchi của cải nước) trong 1 lần vào trước sau dịp lập đông (立冬) để ăn từ mùa đông đến mùa xuân”. Vì vậy mùa muối Kimchi ở Hàn Quốc không những là đơn thuần là việc muối Kimchi hay làm đồ ăn đơn giản mà đó còn là một sự kiện của cả làng xã cùng thể hiện sức mạnh cộng đồng, người dân trong mỗi địa phương cùng đoàn kết và đấy là việc lớn trong nhà để các thành viên trong gia đình cùng làm.
Văn hóa Kimjang là văn hóa sinh hoạt đã được lưu trữ và việc muối kimchi để gia đình và những người láng giềng cùng tập trung lại trước một mùa đông. các kiểu Kimchi trong văn hóa muối Kimchi thì có những điểm khác nhau theo từng khu vực hoặc từng nhà tuy nhiên nhìn chung đều kết nối từ mẹ đến con gái, mẹ trồng đến con dâu.
Kimchi trong văn hóa muối Kimchi-Kimjang một khi được chôn trong lòng đất với phương thức truyền thống thì được bảo quản ở đấy. Bởi vậy, thường thường những người phụ nữ sẽ làm Kimchi và những người đàn ông sẽ đào đất sau đó chôn một lượng lớn các vại Kimchi vào đó. Người Hàn Quốc vừa muối kimchi vừa cùng sẻ chia với những người cùng tham gia làm và cùng ăn như món Kimchi ăn ngay – Geotjeori hoặc gói với các loại thức ăn khác như thịt.
5. Văn hóa Kimjang – việc làm không chỉ của một người
Không chỉ là một món ăn thông thường, kim chi còn mang giá trị văn hóa giao tiếp. Người Hàn Quốc không thích làm kim chi một mình, các gia đình hoặc bạn bè chơi cùng nhau thưởng tụ họp lại để làm kim chi. Họ cùng làm, trao đổi và học hỏi cách thức làm kim chi, nấu ăn và tăng những mối quan hệ giao tiếp giữa những người phụ nữ. Họ còn có truyền thống các gia đình thay nhau làm kim chi nhằm tạo mối liên kết chặt chẽ. Hơn thế, kim chi còn được dùng làm quà biết tạo sự thân tình, gắn bó.
Kimjang cho đến tại thời điểm này vẫn là công việc cần nhiều đến bàn tay con người, cho nên ngày làm Kimjang cũng chính là một dịp lễ hội để gia đình, bà con, làng xóm quây quần bên nhau. Trong ngày này, toàn bộ mọi người trong làng đều tụ tập lại, cùng nhau muối kimchi, hoạt động này còn được nhắc đên là Kimjang. Ngày nay, người ta làm Kimjang như vậy ở các vùng thôn quê, luân phiên nhau qua mỗi nhà giống như việc trao đổi sức lao động. Những bẹ cải thảo hay được ngâm muối từ tối hôm trước.
Ngày làm Kimjang là dịp để bà con thân thích, hàng xóm láng giềng tụ họp lại. Có một thứ không thể thiếu được, đấy chính là thịt lợn luộc. Kimchi vừa mới trộn cuộn với lát thịt luộc nóng hổi là thứ không cao lương mĩ vị nào sánh bằng. Đã là người Hàn Quốc thì ai cũng lưu giữ trong tim một ký ức về kimchi và Kimjang.
6. Văn hóa Kimjang – ngày hội của tình yêu thương
Lễ hội làm kimchi cho người nghèo được bắt đầu từ năm 2001. Tuy vậy, từ năm 2004, lễ hội mới lan tỏa ra cả nước và năm 2013 là năm thứ 14 sự kiện này được tổ chức. Tính đến nay, chương trình này đã sẻ chia kimchi cho khoảng 2,5 triệu hộ gia đình nghèo. Trong tháng 1 năm 2014, lễ hội “Muối kimchi sẻ chia yêu thương” đã chính thức được sách Kỷ lục Guinness toàn cầu ghi nhận là lễ hội làm kimchi quy tụ số lượng người tham gia đông đảo nhất tại một địa điểm. Trong ngày xảy ra lễ hội, có đến 120.000 bó cải thảo ngâm muối nặng tương đương 200 tấn và 50 tấn gia vị được dùng để muối kimchi.
Lễ hội “Muối kimchi sẻ chia yêu thương” với phần đông tham dự là các “bà Yakult – bà sữa chua” là ý tưởng của bà Lee Seo-Won ở Busan. Là người phân phát sữa chua, bà Lee Seo-won đã gặp rất nhiều người già, người có hoàn cảnh khó khăn sống một mình, không thể hoặc rất khó tự mình làm được kimchi. Sau đó bà chủ động mang kimchi do mình muối đến sẻ chia cho những người có hoàn cảnh khó khăn, từ đấy nảy ra ý tưởng toàn bộ những người giao sữa chua cùng hợp lại làm kimchi cho người nghèo.
Lễ hội “Muối kimchi chia sẻ yêu thương” ngay một khi ra đời đã lôi cuốn rất phần đông người dân tham gia. Riêng trong năm ngoái, có tới 1.500 người, chiếm nửa số người tham gia, là người dân bình thường.
Văn hóa Kimjang – Lôi cuốn du khách
Dịp World Cup Hàn Quốc và Nhật Bản 2002, các cổ khích lệ Hàn Quốc trong màu áo đỏ tụ tập chật kín trước quảng trường Tòa thị chính và hò reo khích lệ nhiệt tình. Du khách nước ngoài khi đó đã bị cuốn vào bầu không khí tràn đầy niềm say mê ấy và rất tự nhiên, họ cũng hòa mình vào lễ hội. Điều tương tự cũng xảy ra với “Muối kimchi sẻ chia yêu thương”. Sự độc đáo, đầy ý nghĩa và đặc biệt là quang cảnh quảng trường hoành tráng ngập sắc đỏ kimchi của lễ hội rất cuốn hút khách du lịch nước ngoài.
Có thể nói, Kimjang đang trở thành phương tiện, cây liên quan giúp người nước ngoài thêm hiểu hơn về Hàn Quốc và văn hóa Hàn Quốc. Gần đây lại có nhiều người nước ngoài tham gia vào các sự kiện liên quan đến Kimjang. Bởi làm như thế, họ không những được biết thêm về cách người Hàn Quốc chuẩn bị cho mùa đông hay làm món ăn ra sao, mà còn được trải nghiệm một hoạt động tập thể chia sẻ đầy ý nghĩa để qua đấy cảm nhận sâu sắc hơn những giá trị cần thiết trong xã hội Hàn Quốc.
Ngày nay, tỷ lệ mua Kimchi về ăn ngày càng nhiều hơn là việc muối Kimchi như thời gian trước kia khi mà trong một gia đình Hàn Quốc thường có hơn 3 thế hệ cùng sinh sống và số lượng các thành viên trong gia đình nhiều hơn hiện tại.
Xem thêm: Phong cảnh Tây Bắc : Những tuyệt tác thiên nhiên ở Đất Việt
Hảo Hảo – Tổng hợp, chỉnh sửa
(Nguồn tham khảo: korea,thongtinhanquoc,ruouhanquoc)